236- TU TỨ CHÁNH CẦN PHẢI CÓ NIỆM KHỞI
RA
(34:51) Còn
riêng về phần các con mà tu về Tứ Chánh Cần. Các con lưu ý về cái phần Tứ Chánh
Cần. Tứ Chánh Cần là không nhiếp tâm ở trong hơi thở, không nhiếp tâm ở trong
bước đi, không nhiếp tâm ở trên cánh tay của chúng ta. Đó không phải pháp nhiếp
tâm và an trú. Tứ Chánh Cần là pháp ngăn ác, diệt ác, sanh thiện, tăng trưởng
thiện. Tứ Chánh Cần nó khác.
Ở đây Tứ Chánh Cần là một cái
người ngồi lại lắng nghe từng tâm niệm của chúng ta khởi ra, chứ không phải ức
chế, chứ không phải làm cho niệm đó nó không khởi. Nghĩa là cái người mà tu Tứ
Chánh Cần thì người ta cũng nhắc: “Tâm
bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”, nhưng các con sẽ phân biệt
được hai cái trạng thái tu tập này.
Cái người mà tu tập Tứ Niệm Xứ
thì người ta lắng nghe cái trạng thái bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, bất
động của nó. Còn cái người tu Tứ Chánh Cần thì họ không có lắng nghe cái trạng
thái thanh thản, an lạc, vô sự của nó, mà họ nhìn cái tâm của họ coi có khởi
niệm gì không. Họ chờ đợi cho tất cả các cái niệm ở trong đầu, họ chờ đợi vọng
tưởng.
Họ nhắc cũng câu tác ý: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô
sự” nhưng họ lại ngồi chờ đợi những cái niệm khởi lên, chờ đợi
những cái điều kiện khởi ra tức là những cái vọng tưởng khởi ra. Họ không có
dùng cái trạng thái thanh thản, an lạc, vô sự của Tứ Niệm Xứ, mà họ quan sát
tâm niệm của họ.
Bởi vì cái tâm họ còn vọng tưởng,
còn niệm chưa phải là ức chế, chưa phải có cái pháp ức chế tâm của họ như bây
giờ chúng ta nhiếp tâm và an trú. Cho nên họ chưa có sự an trú, cho nên họ ngồi
đây là vọng tưởng sẽ khởi ra. Cái người tu Tứ Chánh Cần là phải có niệm khởi
ra. Có niệm khởi ra bởi vì họ không có sử dụng cái pháp nhiếp tâm và an trú.
(37:05) Còn
chúng ta tu Tứ Niệm Xứ là chúng ta đã sử dụng pháp nhiếp tâm và an trú đã đạt
được ba mươi phút. Cho nên vì vậy khi chúng ta ngồi lại, chúng ta nhìn lại cái
trạng thái bất động, thanh thản, an lạc, vô sự đã có sự nhiếp tâm trong đó rồi,
đã có sự an trú trong đó rồi.
Còn cái người tu Tứ Chánh Cần nó
không có cái sự nhiếp tâm và an trú, cho nên vọng tưởng dễ dàng xen vào, dễ
dàng đánh vào. Vì vậy mà cái người tu Tứ Chánh Cần là người ta chỉ chờ đợi cho
tất cả các cái niệm đó khởi ra, các cái niệm tham, sân, si ở trong tâm của họ,
các cái vọng tưởng nó khởi ra. Để làm gì? Để họ dùng cái tri kiến họ quán xét
mà họ xả cái niệm đó. Cho nên người tu Tứ Chánh Cần họ không quan trọng vấn đề
nhiếp tâm và an trú.
Nhưng bây giờ họ lại ngồi đó mà
họ chờ, mà trái lại khi đó nó lại không có niệm. Tại vì họ đã ngăn diệt, các ác
pháp nó đã hết rồi, nó chỉ lần lượt, nó chỉ còn cái niệm toàn thiện của họ. Cái
niệm toàn thiện của họ, của người tu Tứ Chánh Cần đó là bất động tâm, thanh
thản, an lạc, vô sự. Nó
hiện ra cái tướng của Tứ Niệm Xứ.
Bởi vì cái Tứ Chánh Cần nó là cái
lớp thứ sáu. Cái lớp thứ sáu tức là Chánh Tinh Tấn trong Bát Chánh Đạo. Các con
nhớ Chánh Tinh Tấn tức là Tứ Chánh Cần. Cho nên khi mà Tứ Chánh Cần nó hoàn
thành, nó đã xả được cái tâm của nó rồi, nó không còn niệm nữa rồi, thì nó sẽ
vào cái lớp thứ bảy của Tứ Niệm Xứ tức là Chánh Niệm. Các con thấy từ Tứ Chánh
Cần đi sang Chánh Niệm, nó có phương pháp rất rõ ràng nó tu.
Còn chúng ta thì khác, chúng ta
lại đi tắt một con đường khác lại nhiếp tâm và an trú trên cái thân hành của
chúng ta. Tức là chúng ta đi qua cái Thân Hành Niệm, tập qua cái Thân Hành
Niệm. Nhưng chúng ta không chuyên về Thân Hành Niệm để tu tập Tứ Thần Túc. Cho
nên chúng ta tu tập Thân Hành Niệm, nhiếp tâm và an trú trên Thân Hành Niệm.
Thân Hành Niệm Nội là hơi thở, Thân Hành Niệm Ngoại là hành động tay, chân,
bước đi. Đó là chúng ta nhiếp tâm an trú trên thân hành.
(39:14) Chúng
ta phải biết chúng ta tu cái pháp nào. Cho nên người tu Tứ Chánh Cần là họ ở
trên pháp Tứ Chánh Cần là ngăn ác diệt ác bằng cách họ ngồi để mà chờ đợi những
cái niệm của họ đến mà họ dùng tri kiến của họ để họ xả cái tâm họ. Hai cái nó
khác xa lắm mấy con.
Cho đến khi mà cái tâm họ hoàn
toàn ở chỗ bất động, thanh thản, an lạc, vô sự, rồi từ đó họ đi vào Tứ Niệm Xứ.
Họ đi vào Tứ Niệm Xứ với một cái rất dễ dàng là tại vì trên Tứ Chánh Cần là họ
từng ở trên cái trạng thái bất động, thanh thản, an lạc, vô sự mà rất tự nhiên.
Họ không phải nhiếp tâm ở trên bất động, thanh thản, an lạc, vô sự đó.
Còn trái lại mấy con nhiếp tâm và
an trú trên thân hành, trên pháp Thân Hành Niệm. Thì do đó, khi đó mấy con trở
về Tứ Niệm Xứ là nó có một cái khoảng thời gian ba mươi phút bất động tâm,
thanh thản, an lạc, vô sự. Cho nên khi mà trở về Tứ Niệm Xứ thì mấy con không
khéo, mấy con chưa có hoàn tất được cái chỗ mà nhiếp tâm an trú ở trên pháp
Thân Hành Niệm, thì mấy con vào Tứ Niệm Xứ thì bị rớt ra, vô không được.
Vô không được bởi vì nhiếp tâm và
an trú chưa được ba mươi phút mà vô đó thì coi như mấy con chưa có căn bản lắm
thì mấy con vô Tứ Niệm Xứ thì Tứ Niệm Xứ nó không có pháp nhiếp tâm đâu. Nó
không có pháp nhiếp tâm cho nên chỉ tự nó bất động rồi tự nó sẽ khắc phục tham
ưu.
Cho nên tới khi mà người ta tu Tứ
Chánh Cần thì nó đến khi mà các niệm nó không còn có nữa thì họ sẽ ở trên Tứ
Niệm Xứ ngay liền cho nên họ rất dễ dàng. Nhưng cái giai đoạn mà tu ở trên cái
động tâm của họ như vậy nó rất khó, nó không có dễ bởi vì niệm nó luôn luôn nó
có. Cho nên họ cũng cố gắng giữ gìn phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của
họ. Toàn bộ tiếp giao với mọi người nhưng họ vẫn ở trên pháp thiện. Mà nếu gặp
pháp ác thì nó cũng làm tâm họ động, rất khó khăn mà để vào Tứ Chánh Cần để cho
nó trọn vẹn, nó khó thanh tịnh được pháp Tứ Chánh Cần.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét