260- PHÁP TU NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ TÂM
Trưởng lão: Hôm
nay mấy con tu hành có tiến bộ không con? Chắc tiến bộ lắm, khá lắm chứ gì?
Nhiếp tâm đứa nào cũng tu tốt hết rồi. Hôm nay thì Thầy sẽ hỏi trước cô Liễu
Châu, con tập như thế nào con? Đến trình bày cho Thầy nghe thử coi? Liễu Châu
con, con cứ đến trình bày cho Thầy nghe con! Cách thức tu tập, nhiếp tâm an trú
có được chưa?
Xá Thầy thôi con, mấy con trình
bày.
Con trình bày cách thức tu tập:
Giờ con ở trong cái trạng thái nhiếp tâm không vọng tưởng, rồi an trú tâm không
vọng tưởng ba mươi phút. Rồi con trình cho Thầy nghe coi có cái nào sai Thầy
sửa lại cho.
Sư cô Liễu Châu: Kính
bạch Thầy! Con cũng đang tu tập theo sự hướng dẫn của Thầy, tức là nhiếp tâm
trong ba mươi phút. Thì con thấy là: trước kia thì con chưa tỉnh thức được trên
cái thân. Bây giờ con thấy được là con nhiếp tâm trong ba mươi phút mà cái ý
thức của con rất là tỉnh. Con nhiếp được cái hơi thở, năm hơi thở vô, năm hơi
thở ra và con đếm nó không lộn trong ba mươi phút. Và cái câu hướng tâm nó cũng
không mất, luôn luôn nó hiện lên trong ba mươi phút đó. Thứ hai nữa là, về cái
niệm khởi thì con thấy là nó vắng, nó không có niệm khởi nữa.
(2:04) Trưởng lão: Khi mà
con nhắc: “An tịnh thân
hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”,
thì lúc bây giờ cái tâm con nghe nó an trú được không con?
Sư cô Liễu Châu: Dạ
khi con nhắc: “An tịnh
thân hành tôi biết tôi hít vô. An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”,
thì cái tâm của con nó theo dõi, nó biết được cái thân hành. Nó theo dõi luôn,
nó nương vào cái hơi thở và nó biết cái thân rất là an ổn từng hơi thở vô ra.
Trưởng lão: Rồi
luôn luôn lúc nào con thấy là hết ba mươi phút, trong cái thời gian mà tu tập
ba mươi phút hoàn toàn nó an trú một cách rất yên ổn không con? (Dạ có)
Trưởng lão: Con
về đi. Các con lưu ý ở trên con đường tu tập, như Thầy đã nói: Nó không phải có
một cái phương pháp nhiếp tâm, an trú trong cái hơi thở, trong cánh tay hoặc là
trong bước đi của chúng ta mà vào cái Tứ Niệm Xứ. Mà nó có những cái phương
pháp khác như: Chúng ta tu tập ngăn ác - diệt ác, sinh thiện - tăng trưởng
thiện của pháp Tứ Chánh Cần cũng sẽ đi vào cái chỗ Bất Động Tâm.
Đi đến cái chỗ Tứ Niệm Xứ nó có
hai cái lộ trình để chúng ta đi vào. Hai cái lộ trình nó có hai cái tên pháp
rất cụ thể, rõ ràng.
Các con lưu ý: Ví dụ như mấy con
nhiếp tâm. Nhiếp tâm đó là cái phương pháp thứ nhất. Nhiếp tâm trong hơi thở,
nhiếp tâm trong cánh tay đưa ra vô, nhiếp tâm trong bước đi tức là đi kinh
hành. Cái nhiếp tâm ở trong cái thân hành mà hơi thở thì gọi là nhiếp tâm trong
Thân Hành Nội. Mà nhiếp tâm trong cánh tay hay bước đi là nhiếp tâm trong Thân
Hành Ngoại. Đó là Nhiếp Tâm.
Nhiếp tâm được rồi ba mươi phút
bằng nhiếp tâm, không niệm vọng tưởng trong ba mươi phút bằng các pháp Như Lý
Tác Ý, có phương pháp hẳn hòi.
Cho nên vì vậy, thí dụ như các
con nhiếp tâm trong cái hơi thở: “Hít
vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, đó là pháp Như
Lý Tác Ý hay hoặc là pháp Hướng Tâm – Dẫn tâm mình vào cái hơi thở. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi
biết tôi thở ra”, đó là cái pháp dẫn nó vô hơi thở. Rồi bắt đầu bây
giờ đó mình lại dẫn nó từng hơi thở. “Hít” đó
là dẫn nó từng hơi thở bằng ý thức của chúng ta tác ý: “hít - thở”, “Một: hít - thở, “Hai: hít - thở”, “Ba hít - thở”, “Bốn: hít - thở”, “Năm: dừng lại”. “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi
biết tôi thở ra”, tức là tác ý dài ra, câu tác ý dài đó để nhắc
chúng ta nữa. Rồi bắt đầu hít thở từng hơi thở, dắt nó từng hơi thở, để rồi nó
hít thở cho đến đúng năm. Rồi là dẫn dắt suốt ba mươi phút không có niệm nào
hết. Đó là cái phương pháp đầu tiên gọi là: Nhiếp tâm.
(4:54) Mà
cái phương pháp như vậy nó có cái tên, cái tên tu tập đó là cái pháp Thân Hành
Niệm. Cái tên mà cái pháp để mình tu tập ở trong cái hơi thở của mình hoặc là
cánh tay đưa ra vô gọi là: Thân Hành Niệm. Nhưng mà Thân Hành Niệm này không
phải là Thân Hành Niệm để luyện nội lực, mà Thân Hành Niệm này để luyện cái sức
tỉnh thức của chúng ta, tĩnh giác của chúng ta. Nó tỉnh nó mới chú ý được cái
hơi thở ra và hơi thở vô của nó ra. Cái pháp đó gọi là pháp Thân Hành Niệm. Tu
trong cái pháp Thân Hành Niệm, nhiếp tâm.
Rồi kế cái giai đoạn nhiếp tâm
đó, khi mà nhiếp tâm được trong ba mươi phút vẫn bằng pháp Như Lý Tác Ý. Ba
mươi phút không có một vọng tưởng nào hết, không có vọng tưởng. Các con nhớ kỹ,
chứ không phải là tu chơi, tu thật đó: Không vọng tưởng. Nếu có vọng tưởng thì
lui lại. Nếu còn có một niệm mà xẹt vô, nhá vô một cái biết liền, nên mấy con
lui lại liền tức khắc. Còn tu thay vì ba mươi phút tu còn hai mươi lăm phút. Mà
nếu trong hai mươi lăm phút, mấy con tu còn nữa, còn một niệm xẹt vô thì mấy
con lui lại còn hai mươi phút. Mà hai mươi phút còn niệm xẹt nữa thì mấy con
lui lại còn mười lăm phút. Mười lăm phút mà tu tập sáng được mà chiều nó còn
một niệm xẹt vô, Thầy nói chỉ một niệm thôi là mất căn bản mấy con rồi.
Mấy con tu ở trong cái pháp mà
nhiếp tâm trong Thân Hành Niệm hoàn toàn đạt được chất lượng không niệm. Chủ
động đến cái mức độ là tâm không khởi một niệm nào được hết, thì mới chấp nhận
cho mấy con căn bản tu tập. Còn một niệm mà mấy con tu tập nữa thì mấy con
không thể đi tới được nữa. Nghĩa là tu tới pháp nào thì mấy con cũng dậm chân
tại chỗ, không trèo cao lên được nữa. Coi như cái căn bản mấy con không đạt
được.
Thí dụ như một học sinh mà muốn
vào lớp Một, mà giờ nó không nhận ra dạng chữ: “A, B, C”. Nó nhận không được, nó đọc theo kiểu
thuộc lòng của nó. Bây giờ đưa cái bảng, đưa cái hình dáng chữ, nó nhận
chữ “A” nó
không ra, mà chữ “B” nó
không ra, làm sao nó ráp lại nó đọc? Rồi nó làm sao nó lên lớp Hai được mấy con?
Nó đọc chữ không được thì làm sao nó lên lớp Hai?
Còn mấy con bây giờ cứ có vọng
tưởng hoài, làm sao mấy con lên cái lớp An Trú được? Thì mấy con đâu có tu tập
an trú được. Mấy con thấy bây giờ ngồi tu nó chỉ trong ba mươi phút mà chỉ
thỉnh thoảng có một, hai niệm thôi, ba mươi phút chỉ có một niệm xẹt Thầy cũng
không chấp nhận nữa. Nghĩa là thí dụ như trong một cái lớp Một, học trò mà đến
học thì phải hiểu cái chữ cái, nó phải nhìn ra cái dạng chữ. Rồi người ta bắt
nó ráp chữ lại, để rồi đọc chữ. Mà nếu nó không có nhận ra cái dáng chữ đó chữ
a, chữ b như thế nào, thì bây giờ nó ráp, làm sao nó ráp được?
Thì mấy con thấy là không bao giờ
mấy con sẽ tiến tới được cái lớp An Trú. Mà cái lớp Nhiếp Tâm mà không đạt được
thì cái lớp an trú không được. Buộc lòng mấy con phải lui lại cái thời gian
ngắn nhất mà như Thầy đã dạy mấy con. Từ một cánh tay đưa ra, đưa vô rồi nghỉ.
Nghĩa là một cánh tay “Đưa
tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”,
thì mấy con đưa ra, đưa vô. Thấy có vọng tưởng? - Không có thì đạt, nghỉ. Nhưng
mà nghỉ chừng khoảng chút xíu chúng ta sẽ đưa ra, đưa vô nữa. Như vậy chúng ta
tu suốt ba mươi phút vẫn không niệm.
(8:15) Nhưng
đây là một lần đầu chúng ta tập, kế đó trong một tuần lễ chúng ta tu tập như
vậy. Sau đó tuần sau thì chúng ta thấy nó nhuần quen đưa cánh tay đưa ra thì
chúng ta đưa hai lần: “Đưa
tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”,
rồi đưa ra đưa vô; “Đưa
tay ra” đưa ra, “Đưa
tay vô” đưa vô. Hai lần như vậy. Rồi lần lượt chúng ta sẽ tăng
dần, tăng dần lên ba lần, bốn lần, năm lần, mười lần, tới hai mươi lần. Tới
đúng ba mươi phút hoàn toàn đưa tay ra vô không có niệm thì chúng ta mới đạt
được cái lớp học căn bản của chúng ta là Nhiếp tâm và An trú. Đó mấy con thấy
chưa?
Chứ còn nếu mà mấy con còn niệm,
thôi rồi! Mấy con cứ tu dậm chân tại chỗ mất đi, thì mấy con không thể nào mà
đạt được trên cái chỗ của cái giai đoạn II.
Cái giai đoạn II là mấy con đã
nhiếp được rồi, nhưng chỉ còn cái pháp Tác Ý nó khác. Cái pháp Tác Ý như đầu
tiên chúng ta tác ý như thế nào: “Đưa
tay ra tôi biết tôi đưa tay ra, đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”.
Nhưng đến cái pháp để an trú thì nó lại khác. Trong thời gian nhiếp tâm không
niệm khởi, có an trú chúng ta không chấp nhận luôn. Chúng ta chỉ biết nhiếp tâm
cho nó chặt thôi; còn có trạng thái an trú đó là sai rồi mấy con. Đó là tự nó
xuất hiện. Chúng ta biết tự nó xuất hiện tức là xúc - tưởng - hỷ - lạc nó xuất
hiện ra, nó làm cho chúng ta an, đó là cái sai không đúng. Còn chúng ta dẫn nó
vào an trú thì đúng.
Như chẳng hạn bây giờ: Bắt đầu
tôi tập tới cái lớp thứ hai: “An
tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay ra. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay
vô”, thì bắt đầu Thầy đưa ra đưa vô, Thầy làm thinh không nhắc đưa
ra đưa vô gì hết. Thầy đưa ra đưa vô Thầy đếm “một”, đưa ra đưa vô đếm “hai”, cho đến “năm”, Thầy nhắc lại một lần
nữa. Nhưng mà “đưa ra đưa
vô” mà khi đó Thầy cảm nhận được cái sự an ổn của thân và tâm
của Thầy thì Thầy không tác ý nữa. Thầy cứ đưa ra đưa vô để mà tập trung trong
cái cánh tay đưa ra vô, trong thời gian kéo dài. Kéo dài coi khoảng thời gian
nó bao lâu sự an trú này. Cũng như nó mất, nó mất là vì nó có một cái niệm, như
vậy là chúng ta là chưa nhiếp tâm trọn vẹn. Cho nên chúng ta phải an trú bằng
cái phương pháp, chứ không thể nào mà chúng ta chỉ an trú một lần mà nó an trú
được.
Cho nên chúng ta sẽ, thí dụ: đưa
ra đưa vô mười lần như thế này thì chúng ta nhắc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay
ra. An tịnh thân hành tôi biết tôi đưa tay vô”. Rồi đưa ra đưa vô,
để cái sự An Trú đó, nó lần lượt nó, tăng dần sự an trú. Tập chừng nào mà chúng
ta chỉ nói một lần, tác ý một lần đầu. Và cuối cùng đưa tay ra vô như thế này
cho đến khi đúng ba mươi phút mà hoàn toàn an trú không có một niệm nào hết,
thì đó là cái kết quả của sự tu tập của pháp thứ nhất - Thân Hành Niệm, tỉnh
thức trên Thân Hành Niệm.
(11:04) Thì
chúng ta khi mà chúng ta tới đây rồi thì chúng ta không được tăng lên cái thời
gian, nó tăng lên trên sự an trú nữa. Có thể an trú tăng lên được nhưng mà sai
pháp. Bởi vì tới đây thì chúng ta không còn tu cái pháp của cánh tay đưa ra vô
hoặc hơi thở “hít vô thở
ra” để tăng cái thời gian lên, mà chúng ta chuyển cái phương
pháp cái tâm an trú này, chuyển nó qua cái pháp Tứ Niệm Xứ. Thì trong khi pháp
Tứ Niệm Xứ thì mấy con thấy tác ý như thế nào? “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự”, rồi
ngồi đây tự nhiên, để cái tâm mình hoàn toàn ở trên cái trạng thái Bất
động-Thanh thản-An lạc-Vô sự, chứ không nương hơi thở.
Nhưng lúc bây giờ mình đã tu
nhiếp tâm và an trú nó đã quen với hơi thở rồi thì nó vẫn thấy hơi thở ra vô.
Tại vì mình không nhiếp trong hơi thở, nhưng mà mình tập hơi thở nhiếp tâm và
an trú trong hơi thở thì nó phải nương vào hơi thở, nó không cách nào khác hơn
hết. Nhưng lúc bây giờ nó là ở trong hơi thở, nhưng mà cái mục đích của nó để
mà tập trung là nó tập trung trong chỗ Bất Động Tâm thanh thản, an lạc, vô sự,
chứ không phải hơi thở, nhưng nó biết hơi thở.
Mấy con phải biết phân biệt được
cái chỗ đó, thì đó mới bước đầu vào tu Tứ Niệm Xứ. Cái pháp đó, cái pháp mà
chúng ta tu tập đó là cái pháp Thân Hành Niệm - Nhiếp tâm và An trú. Vậy ở đây
mấy con thấy người nào mà nhiếp tâm được trong năm phút, trong mười phút, trong
hai mươi phút hoàn toàn không có niệm, thì các con lần lượt tu tập để tăng dần
cho đến ba mươi phút nhiếp tâm, đừng có vội an trú. Thấy nó an an rồi mấy con
tác ý “an” thì
mấy con sai. Bởi vì còn vọng tưởng mà mấy con tác ý nữa là sai, không đúng. Đây
là cái pháp Thân Hành Niệm - Nhiếp tâm và An trú.
Còn những người mà vì nhiếp tâm
trong hơi thở hoặc là trong cái bước đi của mình hoặc là trong cánh tay của
mình nó có những cái trạng thái làm cho rối loạn hô hấp. Làm cho dễ sinh những
cái bệnh căng nhức đầu, thì lúc bây giờ mấy con sẽ tu Tứ Chánh Cần: Ngăn ác
diệt ác, sinh thiện, tăng trưởng thiện.
Nhưng pháp Tứ Chánh Cần nó cũng
gần giống như Tứ Niệm Xứ nhưng mà khác. Nó cũng tác ý giống vậy, nhưng mà nó
khác là vì: Nó không phải ở trên cái chỗ tâm bất động, thanh thản, an lạc mà nó
nhìn cái ý, cái tâm của nó để khởi niệm. Nó nhắc: “Tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô
sự”, thì nó cũng ngồi im lặng, nó không dùng cái hơi thở nó nhiếp
tâm, nó cũng không dùng cái gì hết. Cho nên tâm nó lúc bây giờ dễ có vọng
tưởng, bởi vì nó có nhiếp tâm đâu? Cho nên nó có nhiều cái niệm khởi.
Nó ngồi đây mà nó nhìn những cái
niệm khởi đó để mà nó ngăn và nó diệt; những cái niệm đó hoàn toàn là nằm trong
tâm tham, sân, si của chúng ta. Những cái niệm mà trong đầu chúng ta nó khởi ra
đó là niệm tham, sân, si. Cho nên thậm chí như cái niệm tào lao, cái niệm mà nó
nhớ, nó không quan trọng, nó không ác mà cũng không thiện. Nhưng cái niệm đó nó
cũng do tâm tham, sân, si của chúng ta mà có ra, chứ không phải tự dưng mà nó
có cái niệm đó được. Cũng phải do từ tâm - tham - sân - si của chúng ta, tức là
Ngũ Triền Cái.
Cho nên từ hôm mà Thầy về dạy mấy
con là nhiếp tâm và an trú về hơi thở, về cánh tay, về bước đi. Người nào có
duyên với cái pháp đó thì tu tập kỹ lưỡng, chất lượng hẳn hòi. Thì đến hôm nay
mấy con tu từng năm phút, từng một phút, năm phút. Rồi nếu được thì mấy con tăng
lên, mà chưa được thì ở đó tập cho thuần rồi mới tăng. Tăng lên là phải có chất
lượng, chứ tăng lên mà…Có nhiều người ở bên nam thì các con thấy người ta kê
giấy người ta viết cái công phu tu tập trong một ngày đó là như thế nào? Giờ đó
như thế nào? Người ta viết cho Thầy để mà Thầy xét qua coi cái sự công phu của
họ nhiếp tâm như vậy như thế nào?
(15:03) Cho
nên có nhiều người thì nói khoảng: “Con
nhiếp ba mươi phút, nhưng chỉ có cái buổi sáng, mà chỉ có một niệm xẹt, buổi
chiều nó không có, buổi tối thì nó có hơi hôn trầm, thùy miên chứ nó cũng không
có niệm. Nhưng mà nó hôn trầm, thùy miên nó gục con một cái, rồi con tỉnh lại
liền. Do đó con cũng nhiếp tốt”.
Thầy nói: Hoàn toàn đó là sai,
không đúng. Tu tập hoàn toàn không có hôn trầm, thùy miên xen vào chỗ này. Bởi
cái sức nhiếp tâm nó làm cho cái tâm mình rất tỉnh chứ không phải là ngồi đó lơ
mơ. Không phải ngồi lơ mơ tu lấy có, cho nên nó mới hôn trầm, thùy miên.
Còn cái người tu mà nhiệt tâm thì
người ta rất tỉnh, từng hành động người ta làm rất kỹ lưỡng thì làm sao mà có
cái chuyện hôn trầm, thùy miên xen vào? Mà tu rất kỹ lưỡng thì làm sao mà có
cái niệm khác xen vào? Người ta dẫn tâm từng chút thì làm sao mà có? Cho nên tu
lại, tu vậy không được. Các con thấy không?
Cho nên vì vậy mà có nhiều người
nói: “Con tu chừng mười
phút thì không có vọng tưởng. Nhưng cái thời khuya thì con bị thức dậy rồi ngồi
một hơi thì nó lặng đi nó ngủ”. Thì do đó Thầy nói: Xả cái này đi,
tu như vậy cũng không được nữa. Hễ mình đặt mình nhiếp tâm thì phải nhiếp cho
thật sự tỉnh táo hẳn hòi thì nhiếp mới được. Chứ còn có cái dạng mà hôn trầm,
thùy miên là con tu lơ mơ, tu không đúng. Tu không có nhiệt tâm cho nên nó bị
buồn ngủ hôn trầm.
Khi mà mình thấy mình buồn ngủ
hôn trầm, mình thấy mình ngồi lại thì, tức là mình thấy nó còn cái dạng buồn
ngủ thì mình đi kinh hành. Chừng nào mình đi tới đi lui, chừng nào tỉnh mình
mới ngồi mình tu. Bởi vì tu cái pháp là đem lại cái sự chủ động điều khiển, chứ
không phải mình tu để mà cầu cho nó được. Không phải mình tu để cầu may, mà đây
là tu để làm chủ cái sự sống chết của mình.
Cho nên mình tu, cái niệm ở trong
đầu của mình như vậy, mà bây giờ mình nhiếp tâm mà không có niệm, tức là mình
đã làm chủ nó. Mình tu tập vậy mới có làm chủ chứ. Đầu tiên mà vô mà không làm
chủ mà giờ muốn tu nữa tới cái chỗ mà làm chủ sinh tử, làm sao làm chủ được?
Các con nghe nói, bây giờ các con thấy khi mà nghe nói cái pháp đẩy lui bệnh
thôi, cái lòng tin của mấy con thôi mà mấy con đẩy được cái bệnh thì đó là cũng
lòng tin thôi. Nhưng mà cái người mà nhiếp tâm và an trú được là do cái sự đẩy
lui bệnh bằng cái sự an trú, nhiếp tâm con, bằng sức tỉnh thức của mình.
Còn bây giờ chúng ta chưa có
nhiếp tâm được, chưa an trú được thì đẩy lui bệnh bằng cái đức tin của chúng
ta, bằng cái tín lực, nó cũng lui. Nhưng mà vì cái tín lực nó làm cho cái tâm
của chúng ta kiên cường, không có sợ trước cái bệnh, cho nên cái bệnh tự nó
giảm đi. Còn cái người mà nhiếp tâm mà an trú được là cái sức lực của định tỉnh
của nó, nó đẩy cái bệnh nó ra, làm cho cái bệnh nó phải hết. Cho nên vì vậy đó
mà chúng ta phải chủ động làm chủ cho được cái này.
Ở đây chưa có tới cái giai đoạn
mà thần lực của chúng ta, nội lực của chúng ta có, mà đây mới có tỉnh thức mà
thôi, nó có tỉnh thức. Cái sức tỉnh thức của chúng ta có thì chúng ta đẩy lui
bệnh rất dễ. Chứ chưa có nói đến mà cái sức định lực của chúng ta, cái lực của
cái sức tâm định tỉnh ở trên cái lực của nó. Còn ở đây chúng ta mới có tỉnh
thức mà thôi, mà chúng ta đẩy lui được bệnh.
(18:13) Cho
nên vì vậy mà tu tập kỹ, mấy con nhớ tu tập kỹ, đừng có nghĩ rằng: “Cái người đó tu ba mươi phút, còn tôi
bây giờ mới có một phút”. Một phút mà chất lượng hơn là người đó tu
nhiều. Một cánh tay đưa ra, một hơi thở hít ra, một hơi thở thở ra hít vô mà
chất lượng trọn vẹn đầy đủ, hơn là một người ba mươi phút mà không trọn vẹn đầy
đủ. Đó là cái vấn đề tu về Nhiếp tâm và An trú.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét