343- NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ
(00:00) Trưởng lão: Thôi,
xá Thầy thôi được rồi mấy con! Xá thôi. Mấy con ngồi ghế hết đi con.
Hôm nay, Thầy về để kiểm tra lại cho mấy con con, khi mà nhiếp
tâm được thì phải tập an trú. Mà tập an trú thì mấy con phải biết cách phá hôn
trầm, thùy miên mới an trú được lâu dài. Chứ nếu mà không biết phá hôn trầm
thùy miên thì không thể được an trú được lâu dài.
Cho nên khi mà lọt vào ở trong Tưởng thì mấy con thấy như mình
ngồi mình tỉnh, nhưng mình thấy có cái trạng thái mà an lạc, thì đó là bị cái
trạng thái Tưởng. Có thể nói là mình cảm nhận như mình không có ngủ, nhưng sự
thật ra mình bị Tưởng mấy con. Mấy con lưu ý rất là kĩ vấn đề này, khó chứ
không phải dễ!
Bởi vì khi mà nhiếp tâm là mình nhờ cái phương pháp tác ý, mình
dẫn tâm mình từng, tác ý từng cái hành động thân của mình như hơi thở hoặc là
như cánh tay, như bước đi của mình, mình dẫn nó từng cái tác động. Do cái tâm
của mình tác ý, mình dẫn từng cái hành động của mình, vì vậy mà mình nhiếp tâm
nó dễ, không có cái niệm khởi. Nhưng do mình tập cho nó thuần, tức là nó quen,
nó tự tâm, tự ở trong cái đầu của mình nó không khởi niệm ra, nó quen
nó không khởi niệm.
Hiện giờ một người bình thường thì chúng ta luôn luôn ngồi lại
yên lặng, thì cái đầu nó hay khởi ra những cái niệm, tự động khởi ra nó nhớ cái
này hay hoặc nó nhớ cái kia, đó là vọng tưởng. Cho nên khi mà chúng ta nhiếp
tâm làm cho thân của chúng ta nó dính liền với cái hành động của thân của chúng
ta. Như bước đi, cánh tay đưa ra vô hoặc là hơi thở hít ra, thở vô, làm cho nó
dính liền với cái hành động của nó, nó không có niệm khởi.
Nhưng muốn mà cho nó không niệm khởi thì phải nương vào cái pháp
Như Lý Tác Ý, như cái lý của cái hành động đó mà tác ý như: “Hít vô
tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra” rồi hít vô, thở
ra rồi tác ý nữa. Cứ dẫn nó như vậy thì nó sẽ không có niệm khởi. Khi mà nó
không có niệm khởi bằng cái phương pháp dẫn nó được như vậy rồi thì chúng ta
mới tập an trú.
(02:11) Tập an trú có nghĩa là chúng ta
thưa dần cái câu tác ý ra, nhưng bằng cái câu tác ý khác. Chứ nó không phải như
chúng ta dẫn nó bằng cái câu: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra
tôi biết tôi thở ra” nữa mà: “An tịnh thân hành tôi
biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”. Khi thân của
chúng ta nó ngồi một chút nó động địa, nó không có yên ổn, cho nên chúng ta tác
ý câu đó.
Còn tâm chúng ta nó thấy nó còn có phóng niệm, nó chưa có được
yên ổn, do đó chúng ta tác ý câu: “An tịnh tâm hành tôi biết tôi
hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”. Tùy theo trong lúc
mà chúng ta an trú, chúng ta thấy tâm mình nó dễ động thì chúng ta lại tác ý
tâm.
Mà thân nó bị đau nhức chỗ này hoặc là nó bị mệt mỏi, nó khó chịu,
nó bắt động thân thì chúng ta biết thân không có an ổn được. Cho nên chúng ta
tác ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành
tôi biết tôi thở ra”.
(03:18) Do chúng ta tác ý để dẫn nó cho nó
an, nhưng hiện giờ mới đầu tiên chúng ta tu tập thì nó chưa an. Nhưng dẫn, cứ
tập dẫn nó, dẫn riết chừng nào nó an mà thôi. Nhưng cái cách thức dẫn thì chúng
ta tác ý một lần, rồi hít thở năm hơi thở, rồi coi nó an hay không? Nếu nó an
thì chúng ta sẽ tác ý một lần, hít thở mười hơi thở, mười hơi thở. Mà nếu nó an
nữa thì các con sẽ tác ý một lần, hít thở hai mươi lần rồi mới tác ý một lần và
lần lượt cứ thưa dần ra. Từ cái chỗ tác ý một lần, rồi hít thở hai mươi lần,
hít thở hai mươi lần rồi tăng lên ba mươi lần, bốn mươi lần cho đến đúng ba
mươi phút mà thôi, không có được tăng lên nữa.
Còn khi mà được an trú được trong ba mươi phút, chỉ tác ý một
lần mà an trú được ba mươi phút là chúng ta đã an trú được tâm của mình trên
hơi thở. Mà khi an trú được rồi thì chúng ta mới tu Tứ Niệm Xứ được. Nhưng trong
khi tác ý một lần mà hít thở như vậy mà không tác ý nữa thì dễ bị hôn trầm,
thùy miên.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét