94-CÁCH THỨC ĐIỀU THÂN KHI
NHIẾP TÂM
(14:06) Cho
nên ở đây Thầy dạy cho mấy con lưu ý trở lại về vấn đề tu, thứ nhất như hồi nãy
Thầy nói: Thân phải ngồi bất động ngay thẳng, hẳn hòi, xem xét coi nếu mà cái đầu
của mình nó nghiêng qua như thế này thì cái niệm, cái điểm mà trước mặt để mà
nhìn là nó sẽ bị lệch. Cho nên vì vậy mình phải sửa cái cổ mình ngay, cái niệm
mà ngay trước mà ngồi như thế này thì mình đặt cái niệm nào ở trước mặt mình
cho nó giữa cái nhân trung của mình, mình nhắm cho thẳng hẳn hòi, đàng hoàng,
thì mình đặt cái đầu mình không có nghiêng qua nghiêng lại gì được hết.
Phải lưu ý
cái vấn đề đó chứ không phải muốn tập thì mình phải nhìn cái điểm, mà mình nhắm
ngay là nó sẽ ngay từ cái điểm cái trán của mình, giữa trán của mình với cái điểm
đó nó phải ngay thẳng, thì đồng thời mình nhắm cho đàng hoàng rồi thì mình giữ.
Nếu mà cúi quá như thế này thì nó sẽ gần, mà ngước quá thì nó sẽ ở xa kia. Cho
nên nó vừa thì cái đầu nó không cúi, cần cổ không cúi, cái mặt không cúi xuống,
mà nó cũng không ngửa quá. Cho nên vì vậy mà mình nhắm, chứ không khéo thì mình
ngồi vầy, mình thấy tuốt đằng kia, tức là cái đầu mình nó sẽ ngửa lên đó. Mà hễ
mà thấy nó gần quá tức là cái điểm mà mình chấm ngay giữa trán mình với ở dưới
đất mặt sân mình nhìn đó, mà thấy nó gần cái chân mình ngồi quá thì cái đầu
mình bị cúi.
Mình lưu ý
như vậy để cho mình sửa cái thân của mình nó thẳng thớm, nó không bị ngửa mà nó
không bị cúi, mà nó không bị nghiêng qua, nó không bị nghiêng lại. Đó là cách
thức điều thân, làm cho cái thân nó ngay thẳng, để làm gì? Để cho chúng ta đi một
cái khoảng thời gian dài mà cái thân của chúng ta không bị lệch. Tức là thân lệch
nó sẽ làm chúng ta mất cái sự thanh tịnh của tâm, mất cái sự nhiếp tâm của tâm
của chúng ta.
Cho nên vì vậy
mà nhớ kỹ về vấn đề mà sửa soạn, điều thân của chúng ta, phải ngồi cho nó thẳng,
hẳn hòi, hoàn toàn. Chứ không khéo chúng ta không chịu nhắm như vậy, chúng ta
không chịu cân như vậy thì cái thân chúng ta bị lệch, và bị lệch thì cái thời
gian dài ra, thì chúng ta khó nhiếp tâm lắm chứ không phải dễ!
(16:07) Đến
phần thứ hai là cách thức, phương pháp nhiếp tâm, dẫn tâm vào đạo. Cái phương
pháp dẫn nó, thì cái phương pháp thì Đức Phật nói Như Lý Tác Ý.
Bây giờ, thí
dụ như bây giờ Thầy, đầu tiên Thầy vào, mấy con lưu ý cái vấn đề này: Khi mà
thân ngồi yên ổn rồi, thì bắt đầu mình nhắc: “hít vô tôi biết tôi hít
vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, tức là nhắc mình để chú ý cái hơi thở ra
và hơi thở vô, để dẫn cái tâm của mình đi vào, tức là dẫn sáu cái nhóm, mà sáu
cái thức này đi vào cái chỗ biết cái đó, chứ nó không riêng gì có một cái ý thức
đâu.
Sáu cái thức
tức là dẫn cái tâm, là nói sáu cái thức của mình. Vậy thì trong khi đó mình đưa
cánh tay ra vô thế này thì con mắt vẫn nhìn mà vẫn cảm nhận được cánh tay đưa
ra vô chứ đâu phải không. Nó gom bao nhiêu cái thức của nó trong này chứ đâu phải
không. Nếu mà nó phát ra một cái tiếng động thì cái lỗ tai vẫn nghe chứ đâu phải
không nghe, các con thấy.
Cho nên thí
dụ như bây giờ các con thở mà cái tiếng hơi thở, nó khò khè, thì ít ra cái lỗ
tai các con nghe được cái tiếng khò khè chứ. Thì do đó cái tâm của mấy con tập
trung ở trong cái, là cái vấn đề tập trung ở trong cái hơi thở, cho nên cái hơi
thở động, nhẹ như thế nào thì mấy con cảm nhận đều được hết.
Đó, đó là
cách thức mà chúng ta để dẫn nó vào thì chúng ta nhắc: “hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”, rồi mấy con hít vô, thở ra. Tại
sao khi mà chúng ta tu tập cánh tay thì chúng ta lại nhắc từng cái đưa ra và từng
cái đưa vô? “Đưa tay ra tôi biết tôi đưa tay ra” rồi mấy con mới
đưa ra, có phải không? “Đưa tay vô tôi biết tôi đưa tay vô”, rồi mấy
con mới đưa vô, phải không?
Còn trái lại
sao hơi thở sao không nói: “Hít vô tôi biết tôi hít vô” rồi
hít vô rồi, rồi mới nói: “thở ra tôi biết tôi thở ra”, tại sao vậy?
Tại vì hơi thở không thể làm cái điều đó được, cho nên chúng ta phải nhắc luôn
một loạt: “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”,
rồi mới hít vô, thở ra. Tại sao? Tại vì một hơi thở nó có một cái hơi thở ra và
một hơi thở vô. Một hơi thở ra một hơi thở vô thì người ta gọi là Tức. Một Tức
là nó có hai hơi thở: hơi thở ra và hơi thở vô, đó là một Tức. Vì vậy mà chúng
ta thở một Tức chứ không thể thở nửa Tức.
(18:26) Vì
vậy mà tác ý phải tác ý một Tức, chứ không thể thở mà tác ý nửa Tức. Mà nếu tác
ý nửa Tức thì buộc lòng khi mấy con tác ý: “hít vô tôi biết tôi hít vô”,
rồi mấy con hít vô, thì buộc lòng là mấy con phải nín thở để mà tác ý. Chứ mấy
con không nín thở thì mấy con vừa tác ý mà vừa thở thì tới chừng đó mấy con
không còn cái thở, thở ra mất rồi. Có phải không?
Mấy con vì
bây giờ tôi thở ra, bây giờ: “thở ra tôi biết tôi thở ra”, thì
trong khi mình hít vô rồi bây giờ mình mới tác ý. Thì trong khi mình tác ý mà
không chịu nín thở thì cái hơi thở ra mình sẽ theo cái câu tác ý mà nó ra. Mà
khi nó ra rồi thì bắt đầu bây giờ phải tác ý vô, mà trong khi mình tác ý rồi mà
mình đã thở ra rồi thì còn cái gì, chỗ nào nữa mà thở ra. Các con hiểu điều đó
không? Cho nên như vậy là mấy con phải tác ý liên tục, hai hơi thở vào một Tức
thì nó mới đúng cách của một người tu, chứ không khéo mấy con tác ý từng phần
hơi thở của nó thì sai. Mà nín thở thì nó sẽ bị sanh cái bệnh tồn khí, nó sẽ
làm tức ngực mấy con, nó sẽ sanh bệnh ở trong nội thân của mấy con. Do đó, rất
là nguy hiểm!
Cho nên vì vậy
đó, mà tác ý liên tục, đó, thí dụ như: “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở
ra tôi biết tôi thở ra” rồi bắt đầu hít vô, thở ra. Nhưng khi mà hít
vô, thở ra không tác ý nữa thì đếm một, hai, ba, bốn, năm. Nhưng mà đến năm hơi
thở như vậy mà khoảng thời gian không tác ý nữa mà vẫn có niệm, thì cái sức của
mấy con phải dẫn nó liên tục từng hơi thở. Vậy thì muốn dẫn liên tục từng hơi
thở như thế nào?
Bắt đầu nhắc
một lần đầu tiên: “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở
ra” rồi bắt đầu hít, thở. Thì mấy con sẽ tác ý thầm, đây là Thầy tác ý
cái âm thanh ra để cho mấy con nghe.
- Khi mà nhắc cái tâm của mình đầu
tiên câu tác ý dài: “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra”, rồi bắt đầu bây giờ mới lệnh “hít”, “thở”, “hít”,
“thở”, “hít”, “thở”.
Cứ cái lệnh
của nó bảo “hít”, ra lệnh nó “thở” thì cái Ý thức
của mấy con tập trung vào cái lệnh “hít” thì cái vận dụng của
cái hít, cái cơ thể các con vận dụng hít vô; “thở” thì vận dụng
thở ra. Và cái sự hoạt động như vậy, cái lệnh của nó buộc cái thân của nó phải
vận dụng để hít vô hoặc thở ra, thì như vậy là không bao giờ có vọng tưởng.
Không bao giờ có một niệm tự chỗ nào mà xen vô chỗ đó được hết.
- Rồi kế tiếp cái năm hơi thở đó rồi,
thì các con sẽ tác ý câu dài: “hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra
tôi biết tôi thở ra”. Rồi bắt đầu trở lại “hít”, “thở”, “hít”,
“thở” “hít”, “thở” cho đến đúng, mấy con đúng năm hơi thở rồi thì
mấy con dừng lại, mấy con tác ý nữa.
Và như vậy,
tu ba mươi phút mấy con cứ ngồi lo mà làm cái công việc đó, thì như vậy là
không bao giờ có niệm.
(21:29) Như
vậy rõ ràng là thay vì để mấy con ngồi yên lặng như thế này biết hơi thở ra vô
mà không dẫn nó, thì mấy con sẽ bị một vài niệm hay là nhiều niệm chứ không phải
một vài niệm nữa, suốt ba mươi phút.
Còn bây giờ
tập như vậy, nhưng mà phải hiểu biết. Nếu cái năng lượng của mấy con có đầy đủ
thì ba mươi phút thì mấy con sẽ không bị mệt nhọc, không bị căng thần kinh,
không bị rối loạn hô hấp. Còn nếu mà cái năng lượng của mấy con thiếu kém, bởi
vì khi vận dụng như vậy, mấy con vừa tác ý, mà vừa vận dụng sự tu tập như vậy
thì cái sức hao tổn của mấy con rất lớn. Cái năng lượng bị hao tổn, mà hao tổn
mấy con cố gắng, cố gắng, càng cố gắng thì hao tổn. Thì do đó, mấy con thấy chỉ
một lúc sau đó thì mấy con có thấy vọng tưởng vào, là cái năng lượng tập trung,
là cái năng lượng làm việc của mấy con bị hao kém, cho nên mấy con không thể
ngăn chặn nó được, không thể ức chế nó được, không thể làm cho nó dừng lại được.
Đó, mấy con thấy không?
Cho nên vì vậy
đó, thì mấy con phải biết khi mình cũng cố gắng mình tập như vậy mà khoảng độ
chừng mười phút thì được, mà trên mười phút là bị, thì mấy con phải lấy cái
tiêu chuẩn mười phút mà tập chứ không được tập ba mươi phút. Sau khi tập thuần
quen rồi, thì mấy con có cái sự An trú, mà có sự An trú thì cái năng lượng của
mấy con được tăng, được tự thân của mấy con tăng lên để trợ giúp cho mấy con có
cái sức lực để mấy con tiếp tục kéo dài cái thời gian ra.
Cho nên khi
đó mấy con tu mà nhiếp tâm và an trú bằng cái phương pháp dẫn tâm xong được rồi
mà khoảng ba mươi phút nhiếp tâm không niệm, mấy con phải tập một tuần lễ cho
thuần thục. Sau một tuần lễ thuần thục rồi, không một niệm nào hết, thì mấy con
lại thay đổi cái câu mà: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết
tôi thở ra” bằng cái câu: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít
vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Bởi vì mình
nhiếp không có vọng tưởng, tức là mình dẫn tâm mình vào cái chỗ không có niệm,
tức là vào cái hơi thở, thở ra thở vô mà không có một cái niệm nào xen ra được.
Bây giờ tôi dẫn nó vào cái sự An ổn trong ba mươi phút này, vào tôi khép chân
tôi ngồi là tôi dẫn ngay nó vào cái sự An ổn, thân tâm tôi nó không còn bị đau,
bị tê, bị mỏi, bị nhức, bị lúc lắc, bị lăn qua, bị lộn lại, hoặc là bị hôn trầm
thùy miên, làm cho nó rất là tỉnh táo, làm cho nó rất là an ổn.
Cho nên tôi
thay đổi cái câu đó là cái câu dẫn thân tâm chúng tôi vào cái sự An ổn: “An
tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Rồi bắt đầu bây giờ mình thở ra, hít vô, thở ra nhẹ nhàng, thử xem coi nó có an
tịnh không. Nếu nó có an tịnh thì mình cứ thở ra thở vô để an tịnh nhưng mình
biết rằng trong khoảng thời gian nó chỉ năm phút hay là mười phút nó sẽ bị mất.
Do đó thì,
tôi biết rõ như vậy, cho nên vì vậy mà khoảng độ chừng năm phút là tôi lại tác
ý: “An tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra, an tịnh thân hành tôi biết
tôi hít vô”, mình dẫn nó để cho nó trở lại nó đem lại cái sự an ổn lại một
lần nữa và cứ như vậy mà dẫn nó năm lần, ba lần như vậy để đúng ba mươi phút
thì mình xả ra.
Nghĩa là
mình tập luyện làm sao mình có phương pháp để dẫn tâm của mình, dẫn nó vào nhiếp
trong hơi thở, dẫn thân tâm của mình vào sự An ổn. Sau khi đạt được sự An ổn rồi
thì mình sẽ tu pháp khác chứ không phải tu nó nữa.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét