360 – KHÁC NHAU GIỮA NHIẾP TÂM VÀ AN TRÚ
(08:32) Trưởng lão: Còn
Giác Thức hỏi Thầy về cái nhiếp tâm và an trú nó có khác nhau không? Thầy trả
lời: “Nhiếp tâm khác mà an trú
khác, hai cái nó khác nhau, nó không có giống nhau”. Cho nên khi mà
chúng ta nhiếp tâm nó không thấy có vọng tưởng thì chúng ta thấy nó cũng an. Sự
thật ra nó an là nó không vọng tưởng chứ không phải là. Bởi vì khi đó mình đang
dùng cái phương pháp Như Lý Tác Ý rồi mình đếm một, hai, ba, bốn, năm, sáu,
bảy, tám, chín, mười hơi thở. Do đó là mình đang nhiếp thì không thể nào là an trú
được. Mặc dù cái tâm mình nó không niệm, không gì hết, nó an ổn đó, nhưng mà sự
thật ra mình đang còn cái pháp Như Lý Tác Ý.
Còn cái
an trú cứ thưa dần, thưa dần. Chỉ có tác ý một lần đầu và sau đó thì tâm mình
biết hơi thở. Chỉ biết ra vô nhẹ nhàng trong hơi thở mà không cần tác ý nữa thì
đó gọi là an trú. Còn tác ý thì chưa phải được an trú, bởi vì mình còn động mà.
Mình còn tác ý tức là cái ý thức mình còn tác ý ra cái câu, cho nên nó động, nó
chưa hoàn toàn nó an trú ở trong cái tâm của nó. Nhiếp tâm khác, an trú khác.
Nhiếp tâm
dùng pháp Như Lý Tác Ý liên tục tác ý để tâm không có niệm xẹt vào. An trú tâm
là chỉ tác ý một lần, rồi để tâm an trú mà không cần tác ý nữa. Về pháp tác ý nhiếp tâm khác với pháp tác ý
an trú tâm, hai cái pháp nó khác nhau. Ví dụ như mình tác ý nhiếp
tâm trong hơi thở thì mình tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi
biết tôi thở ra",
đó là cái câu tác ý của pháp nhiếp tâm.
Còn cái
câu tác ý mà của an trú tâm thì: “An
tịnh tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra”.
Hoặc là: “An tịnh thân
hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”.
Cũng hơi thở mà là an trú thì tác ý: “An
tịnh”. Còn nhiếp tâm thì tác ý: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra
tôi biết tôi thở ra". Đó là hai câu tác ý nó cũng khác
nhau, nó không giống nhau.
(10:36) Còn về hôn trầm, thùy miên, vô kí thì
phải dùng pháp Thân Hành Niệm. Nhưng mà ở đây mấy con chưa có đủ cái sức giai
đoạn để mà phá hôn trầm, thùy miên, là vì nhiếp tâm chưa trọn. Khi mấy con
nhiếp tâm mà trọn vẹn rồi và an trú được rồi thì tự nó, nó cũng hết hôn trầm,
thùy miên, chứ khỏi cần phải dùng pháp Thân Hành Niệm. Bởi vì nhiếp được rồi
thì nó rất tỉnh, mà nhiếp chưa được thì nó, lúc mà còn niệm xẹt ra vô thì nó
còn có hôn trầm, thùy miên.
Cho nên
cái kết quả của cái giai đoạn đầu mình tu tập được thì những cái sau nó dễ
dàng. Mà kết quả nó chưa được, cho nên mấy con bị hôn trầm, thùy miên đánh là
tại vì mấy con nhiếp chưa được. Rồi an trú chưa được mà lại muốn tu nhiều cho
nên vì vậy mà nó đánh gục tới gục lui. Rồi nói: “Sao tui bị càng tu nhiều lại bị hôn
trầm, thùy miên nhiều?”. Chưa có kết quả của cái sự nhiếp tâm. Cho
nên mình từ từ, mình nhiếp chặt chịa để cho nó thuần thục.
Thí dụ
như tu mười phút là phải thuần thục mười phút, mà thấy mình chưa thuần thục là
phải tập. Nghĩa là hoàn toàn nó chưa thuần thục thì mình thấy cái tâm mình nó
còn muốn khởi niệm. Bởi vì mình tỉnh lắm, cho nên mình thấy nó xẹt một cái, hay
hoặc đó là nó đã quá chậm rồi, nó xẹt vô đó. Còn cái mà mình thấy nó muốn nói đó,
nó tỉnh đến cái mức độ mà nó chưa có xẹt gì hết mà mình biết nó sắp sửa, biết
liền. Như vậy cũng chưa được nữa, nó phải nằm im lìm, nó không có một cái niệm
gì được hết.
Cho nên
cái pháp Như Lý Tác Ý nó dẫn, nó làm cho cái ý thức nó bận công việc. Cho nên
nó không còn khởi cái niệm khác được, thế cho nên gọi là pháp Như Lý Tác Ý. Thế
mà mấy con cứ tác ý. Chưa có nhiếp tâm được mà bỏ pháp tác ý để cho nó an trú.
Thí dụ như bây giờ các con thấy rõ ràng: "Hít
vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra", rồi hít vô,
thở ra thấy năm hơi thở nó dễ hơn. Còn bây giờ hít thở, hít thở, hít thở, hít
thở nghe nó mất công quá.
(12:34) Nhưng mà sự thật ra cái phương pháp đó
là phải dùng như vậy để dẫn tâm vào đạo, để nhiếp tâm cho được. Mà nhiếp được
như vậy là vì cái ý thức của chúng ta mắc bận tác ý, cho nên nó không khởi niệm
được. Sau một thời gian tập cho thuần thục rồi thì cái niệm nó không khởi, nó
lại quen nó không khởi, các con biết chưa? Nó quen nó không khởi chứ không ai
giỏi hết! Bởi vì từ xưa đến giờ, con người mình sinh ra, bao giờ cái tâm của
mình nó cũng lăng xăng, cho nên nó gọi là “tâm
viên ý mã”.
Mà bây
giờ muốn cho nó đừng có lăng xăng khởi niệm nữa thì mình không thể nào mà mình
ngồi bất động được, cho nên mình phải dùng cái pháp Như Lý Tác Ý. Mà Như Lý Tác
Ý nó làm cho cái ý thức của mấy con nó bận cái công việc tác ý, cho nên nó
không có còn khởi niệm khác được. Và vì vậy do đó nó không còn khởi cái niệm
khác được, tức là mình chủ động được ý thức của mình, làm cho nó không có tự
động khởi niệm.
Và khi
một thời gian tu tập thuần rồi đó, mình mới chuyển qua- mình thấy nhiếp phục
được bằng pháp Như Lý Tác Ý- cho nên mình mới chuyển nó qua sự an trú. Thì
chuyển qua sự an trú thì mình thưa dần cái câu tác ý ra, bỏ dần, bỏ dần ra. Chứ
không phải bỏ một loạt, đâu phải được liền đâu, không phải? Bỏ dần câu tác ý
ra. Từ đó nó mới, mình không tác ý mà nó vẫn không niệm thì gọi là an trú.
Thầy
không nói một cái trạng thái gì mà nó an ổn hết, mà Thầy chỉ nói cái cách thức
làm của mình thôi, cách thức tu của mình thôi, phải không? Cho nên vì vậy mình
thưa dần cái câu tác ý ra. Hồi đó đó, thí dụ Thầy nói: "Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra
tôi biết tôi thở ra. Hít thở; Hít thở; Hít thở, Hít thở".
Năm hơi thở rồi Thầy tác ý một câu dài nữa, rồi năm hơi thở tác ý một câu dài
nữa. Thầy dẫn đến ba mươi phút mà không có niệm gì hết, nhưng mà nó nhờ cái câu
tác ý.
Bây giờ
đó Thầy mới, khi mà tu tập an trú thì Thầy lại thưa ra, bắt đầu Thầy
nhắc: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô,
an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra” rồi bắt đầu Thầy
hít vô, thở ra. Thầy hít vô, thở ra đầu tiên thì Thầy còn đếm: “một, hai, ba, bốn, năm”. Sau đó thì Thầy
không đếm nữa. Đếm nó còn tác ý đếm mà, các con hiểu chưa? Thầy không đếm nữa.
Hít vô, thở ra. Hít vô, thở ra. Hít vô, thở ra, rồi Thầy tác ý: “An tịnh…” lần nữa.
(14:57) Cho cuối cùng đến khi mà Thầy tập từ từ
Thầy thưa dần, thưa dần cho đến khi mà Thầy không cần tác ý mà không đếm hơi
thở nào nữa hết, mà hoàn toàn tâm của Thầy nó không khởi niệm. Tức là nó đã
quen đi, nó không có niệm nữa, chứ không phải là mình để còn ức chế nó. Cho nên
mình thả dần đến cái mức độ mà tự cái tâm của mình, cái ý của mình nó quen mà
nó không khởi niệm. Mà nó không khởi niệm hoàn toàn thì mình đã an trú trong ba
mươi phút kết quả của mình.
Từ mà kết
quả đó thì chúng ta mới đi vào Tứ Niệm Xứ, chúng ta mới thực hiện sáu tiếng
đồng hồ ở trên tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự. Đó, mấy con thấy không?
Phải tập như vậy. Còn bây giờ mấy con tập lung tung. Trời ơi! Thầy tập cái này,
Thầy thấy con tập cái kiểu này chắc chắn là không biết chừng nào đó! Chắc là
Thầy chết hai kiếp rồi Thầy lên thì mấy con, chứ chưa! Nghĩa là lên kiếp này
Thầy tịch rồi, Thầy trở lại một kiếp nữa.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét