499- TU TRONG TỪ TRƯỜNG TƯỞNG
SAU KHI CHẾT
(33:35) Tu sinh 1: Kính bạch Thầy, con
muốn hỏi hai câu.
Thứ nhất là, trong trường hợp tu mà chưa chứng, bây giờ
chết rồi thì có tu tiếp tục được nữa hay không? Lý do đó là vì con nhận thấy rằng
khi người mà chết rồi, cái luật âm dương nó vẫn còn. Là vì bằng chứng là con thấy
người mà chết đuối đó: nam thì úp xuống, mà nữ thì lật ngửa, thì các lực âm
dương nó còn tác động. Do đó mà con muốn hỏi Thầy, người chết rồi thì mình nên
chôn, hay mình nên thiêu, cái đó là một câu.
Câu thứ hai con muốn hỏi, là khi mình vô Định, rồi nó xuất
Định. Cái Định lực nó mãn, nó tự nó xuất hay là do mình tác ý cho thời gian cho
nó xuất? Nó nhập Định rồi tới cái thời gian đó, tự nó nó xuất. Trong trường hợp
Nhị Thiền thì con thấy là Ý thức lực của mình nó đã đóng rồi, chỉ còn có cái Tưởng
lực nó hoạt động. Do đó mà lúc đó nó tự xuất hay là do mình tác ý xuất?
Trưởng lão: Để Thầy nói cho
con biết. Được rồi, Thầy sẽ trả lời. Trả lời câu thứ nhất là con nói rằng: “Một
cái người tu mà sau khi chết rồi còn tu nữa hay không?” Phải không?
Sự thật ra cái người tu là người đã làm muội lược được
nhân quả, muội lược tham, sân, si rồi. Mà muội lược thì đức Phật đã nói trong
Kinh Tăng Chi, đức Phật đã nói rõ mà: “Người đó sẽ tiếp tục tu”.
(35:07) Như vậy là Thầy có khuyên mọi người, khi một
người đã tu, đã muội lược được nhân quả, muội lược được thiện ác của nó rồi,
thì nó không còn tương ưng với người khác đi tái sanh. Cho nên cái nghiệp nó đi
tái sanh mà. Cho nên con không còn tham, sân, si giống như những người còn
nguyên tham, sân, si. Bởi vì nó đã muội lược, nó làm giảm đi rồi. Thì cái số
người mà hiện giờ, mà giảm đi như mấy con tu, thì mấy con giảm rồi thì mấy con
làm sao sanh? Chỉ có người đời người ta mới sanh thôi. Người ta còn dục, người
ta mới sanh. Còn mình tu mà, mình đang hàng phục, mình không còn dục, mình
không còn có thể tiếp cận ở trên con đường sinh tử đó nữa. Thì do đó thì con
đang tu, con cũng làm giảm, thì con không có tương ưng được. Thì tức là, con sẽ
tiếp tục con tu.
Mà trong cái bài kinh đó nói thì người ta rất khó hiểu.
Là vì nói rằng mình đang ở trên cõi trời, cái người tu đó sẽ ở trong cái cõi trời
mà tiếp tục tu tới. Nhưng mà cõi trời của đức Phật đã xác định trong bài Kinh
Pháp Môn Căn Bản, thì đức Phật đã xác định rất rõ: “Ba mươi ba cõi
trời là cõi Tưởng”. Vậy thì mình đang tu ở trong Tưởng. Mà khi cái thân
mà đã chết rồi, mà đem đốt thì cái Tưởng nó cũng bị diệt luôn. Cho nên cái người
chết rồi thì nên chôn. Cái thân nó nằm đó, chứ cái Tưởng nó hoạt động bởi vì
cái thân nó còn. Cho nên nó chết là cái thân nó không thở thôi, cũng như một
người ngủ thì cái chiêm bao nó còn, nó có chiêm bao. Thì cái ý thức nó ngưng,
nó hoạt động thì cái thân nó ngưng, nhưng mà cái Tưởng nó còn.
Ở trong bộ óc chúng ta, nó còn một phần. Cho nên người mà
đã tu, mà muội lược, thì cái thân nó chết, nhưng mà cái hơi ấm nó còn, nó không
mất hơi ấm. Nó không mất hơi ấm, tức là nó còn hoạt động trên bộ óc đó con. Cho
nên vì vậy mà chúng ta cứ đem chôn họ đi, rồi họ nằm, tiếp tục họ dùng Tưởng họ
tu, họ tiếp tục họ tác ý. Họ chỉ tác ý có cái phần những cái tâm thôi, còn cái
thân họ bị chết rồi, cái cảm thọ nó không còn, họ dễ tu hơn. Cho nên một thời
gian sau thì họ vô lậu, cho nên mấy người tu thì chúng ta không nên thiêu mấy
con ạ.
(37:11) Thiêu là tục lệ của người Campuchia, của người
Ấn-độ, chứ còn Việt Nam chúng ta không có cái tục lệ thiêu. Nhưng bây giờ, tại
vì con người đông quá, đất đai không có chỗ chôn. Cho nên người ta thiêu để cho
bỏ vào cái hũ, nó nhỏ, nó gọn, rồi xây tháp để đó mà thờ thì nó gọn hơn là cái
mả. Nhưng mà con người, phong tục Việt Nam thì con nghe: “Sống cái nhà,
thác cái mồ”. Cái tình cảm con người Việt Nam nó khác hơn người
Cam-pu-chia. Cho nên cái tục lệ thiêu không phải là đức Phật chế ra, mà tại cái
dân tộc Ấn Độ nó có phong tục thiêu, nó cũng như Cam-pu-chia vậy thôi.
Cho nên ở đây chúng ta biết rằng, khi mà cái thân này nó
chết đi, nhưng mà cái Tưởng nó còn hoạt động, thì chúng ta nên để cho nó tiếp tục
nó tu. Bởi vì chúng ta là những người tu phải muội lược. Đã tham, sân, si ít rồi,
người ta chửi mình, mình không giận dữ như cái người ở ngoài đời, phải không?
Con thấy nó giảm rồi, chứ đâu phải giận dữ đâu. Mình bây giờ mình tham, cái miếng
ăn của mình mình tham, mình còn tham ăn ít, chứ đâu phải mình tham ăn như ngoài
đời? Mình còn tranh ăn đánh lộn, mình này kia gì gì, tranh giật cái ăn uống,
cái tài sản, của cải… Còn mình bây giờ bỏ rồi, mình đâu còn có làm, cho nên
mình giảm hết rồi mấy con. Cho nên vì vậy mà chết đừng có thiêu, mà đem chôn.
Đó là cái phần Thầy trả lời cái ý thứ nhất.
Còn quy luật âm dương là quy luật của nhân quả. Nhân quả
mà con. Đã nói nhân quả mà. Cho nên cái người nữ mà sanh ra người nữ là phải
cái quả của họ phải sanh người nữ, là họ phải chịu đựng những cái gì, cái gì của
người nữ. Từ cái tâm tính của họ nữa con. Nó cả một vấn đề. Cái thân, rồi cái
tâm tính. Rồi cái người nam, là cái nhân quả của nó mà. Cho nên nói về nhân quả
thì phải nói về luật âm dương. Cho nên người ta không hiểu về nhân quả, người
ta mới không hiểu gì qua cái âm dương.
(39:00) Người ta thấy đêm thì tối mà ngày thì sáng,
thì do đó đêm là âm, mà ngày sáng là dương. Đó mấy con thấy chưa? Người ta nói
trời là dương, mà đất là âm, có phải không? Người ta theo cái quy luật đó mà
người ta tính, sinh ra để mà đẻ ra cái dịch số để mà người ta suy, người ta chiếu
những cái quẻ chiêm tinh này kia. Thì đó là cũng dựa vào cái quy luật của nhân
quả mà tính ra chứ có cái gì khác.
Bởi vì cái quy luật nhân quả nó điều hành cả vũ trụ mấy
con. Cả vũ trụ! Thời tiết, nắng mưa, gió bão… đều là quy luật của nhân quả điều
hành. Thì nó điều hành, thì bắt đầu bây giờ có người nói rằng âm dương. Chứ sự
thật ra họ không hiểu là luật nhân quả nó phải điều hành theo cái quy luật đó
chớ. Nếu mà không có điều hành theo quy luật đó thì làm sao, toàn là nam không
làm sao mà tái sanh luân hồi? Con hiểu không?
Mà cái quy luật của nhân quả thì phải tái sanh luân hồi
chứ? Mà tái sanh luân hồi thì nó phải bằng đi vào con đường nào? Không phải là
con đường âm dương này sao? Có nữ có nam, con hiểu chỗ đó chưa? Cho nên nó là
quy luật nhân quả rồi. Cho nên cái người nam khi mà chết nổi đó, mà nằm sấp,
người nữ nổi lên, thì đó là một cái quy luật của nhân quả của người ta mà. Mình
thấy đó. Còn cái người mà nói về âm dương thì họ nói âm dương, phải không? Cho
nên vì vậy cái đó là một cái tại mình không hiểu, chứ nó là nhân quả thôi,
không có gì.
Còn về cái phần mà nói về Định. Thầy đã nói con ở trên Tứ
Niệm Xứ, con đã có Tứ Thần Túc, Định Như Ý Túc, phải không?
Cho nên khi mà nhập vào Sơ Thiền là con nhập vào bằng cái
Định Như Ý Túc. Cũng ý thức mà ý thức lực của nó, nó trở thành Tứ Thần Túc, Định
Như Ý Túc là một cái thần lực của Tứ Như Ý Túc, chứ chưa có Tứ Như Ý Túc. Ở
trên Tứ Niệm Xứ nó mới có Tứ Thần Túc. Chứ không phải mà có Tứ Thần Túc rồi, nhập
Định rồi nó mới có Tứ Thần Túc, không phải đâu. Nó ở trên Tứ Niệm Xứ là nó thực
hiện.
Bởi vì đức Phật nói: “Món ăn của Bảy Năng Lực
Giác Chi đó là Tứ Niệm Xứ”. Nếu Tứ Niệm Xứ nó kéo dài được, thì nó là
món ăn của Thất Giác Chi, Bảy Năng Lực Của Giác Chi. Mà Bảy Năng Lực Giác Chi tức
là Tứ Thần Túc.
(41:17) Mà cái trạng thái mà Tứ Niệm Xứ này không
kéo dài, thì nó làm sao có cái kia được? Con hiểu chưa? Mà Tứ Niệm Xứ nó có rồi,
bắt đầu mới vô Tứ Thánh Định. Tứ Thánh Định thì nó sử dụng, nó không dùng Ý thức
nó vô đâu. Nó dùng cái Định Như Ý Túc nó vô, nó hướng tâm nó vô, chứ không phải
là mình tác ý.
Như bây giờ Thầy tác ý cái miệng, cái ý thức của Thầy.
Còn cái kia nó hướng vô, thì thân tâm nó vô Sơ Thiền. Rồi hướng ra nó ra, nó ở
trên cái trạng thái Tứ Niệm Xứ. Rồi hướng vô Nhị Thiền nó diệt Tầm, Tứ, nó diệt
Tưởng, nó diệt cảm thọ hết, nó nhập Tứ Thiền, nó tịnh chỉ hơi thở, đều hoàn
toàn Định Như Ý Túc không.
Cho nên chúng ta tới cái tâm mà bất động, chúng ta thanh
thản, an lạc, vô sự của Tứ Niệm Xứ rồi thì nó đã có cái đó rồi, thì bắt đầu
chúng ta đi qua cái giai đoạn Định rồi, cho nên chúng ta không còn lo ba cái Tưởng,
ba cái gì… Ý thức với Tưởng chúng ta đâu còn lo. Nó là cái lực của Vô Lậu. Cái
lực của Tứ Thần Túc là lực Vô Lậu. Khi có Tâm Vô Lậu là phải có cái lực của nó.
Cũng như Tâm Hữu Lậu thì nó phải có cái lực Nghiệp báo.
Cái Hữu Lậu con thấy không? Tâm giận hờn, phiền não thì phải có Nghiệp báo chứ,
con hiểu chưa? Cái lực của Nghiệp báo- Người ta vừa nói cái mình sân ầm lên liền-
cái đó là cái lực của Nghiệp báo.
Còn cái kia, cái tâm mà Vô Lậu rồi, thì cái lực Tứ Thần
Túc là cái lực tự nhiên của nó mà, chứ đâu phải mình tập mà có con. Do cái Tâm
Vô Lậu mà có, chứ không phải là mình luyện mà có Tứ Thần Túc đâu. Luyện có Tứ
Thần Túc là luyện pháp Tưởng, chứ không phải thật. Còn cái tâm mình Vô Lậu thì
cái lực vô lậu nó phải có thôi. Chứ mình không luyện ba cái Tứ Thần Túc này làm
gì. Nó có là cái lực của Tâm Vô Lậu. Do đó mình sử dụng cái lực Tâm Vô Lậu mình
mới vào Tứ Thánh Định.
Tu sinh 1: Như vậy là xuất
Định là tự nó, mặc nó nó xuất thôi, chứ không phải…?
Trưởng lão:Không con! Mình muốn
xuất hồi nào … Bây giờ Thầy vô Định, Thầy ra lệnh vô, thì bây giờ vô. Bây giờ
Thầy muốn ra thì ra, mà Thầy không muốn ra thì Thầy ở trong đó. Tự động Thầy chủ
động mà. Bởi vì cái lực làm chủ rồi, Dục Như Ý Túc mà – muốn như ý mình mà.
Mình không muốn thì mình ở trong Định hoài. Dù là cái Sơ Thiền nó cũng ở hoài
trong đó, không biết bao lâu. Ngồi bất động đó thôi, chứ đừng nói chi mà tới Tứ
Thiền, phải không? Mà Thầy muốn ra là lúc nào Thầy cũng ra.
(43:27) Còn cái người mà tập để luyện, bây giờ mình
nhắc giờ. Bây giờ một ngày, bảy ngày này kia, đó là cách thức tập luyện thôi, tập
luyện mới đầu thôi. Chứ còn mà khi có đủ cái lực đó rồi, thì không có tập vậy nữa.
Khi mình đã tu xong rồi đó, thì mình muốn vô đó thì mình ở. Mà mình muốn ở bao
lâu đó mình ở, mà mình muốn ra thì mình bảo nó ra, nó ra. Còn cái người mà mới
tập, mà không khéo đó, mà không ra lệnh đó, nó vô nó ở luôn đó, không biết đường
đâu mà ra, nó kẹt trong đó. Con hiểu không? Là cái người mới tập.
Tu sinh 1: Bạch Thầy như
con thấy kỳ rồi con có hỏi về Nhị Thiền đó (…) Khi đó rồi làm sao nó xuất Định?
Con thắc mắc chỗ đó.
Trưởng lão: Bởi vậy, con biết một
khi mà mình có Tứ Thần Túc rồi, thì mình vào ra nó tự chủ hết rồi. Còn mình
chưa có, thì mình tập đó, thì bắt đầu cái Tưởng lực nó hoạt động. Bởi vì mình
đang tập mà tập sai đó thì cái Tưởng lực nó hoạt động, thành ra nó hoạt động
theo cái lực của Tưởng rồi. Đó thì mình sai.
Còn cái kia nó dùng cái lực của Vô Lậu rồi. Nó điều khiển
cái Tưởng không có còn hoạt động được nữa. Còn trong khi đó mình đang tu tập
nó, thì cho nên vì vậy mà khi mình muốn vào cái Định của Sơ Thiền, thì mình nhắc: “Phải
vào đây mấy giờ phải ra”, thì tự động nó ra. Chứ không khéo thì mình không
thể ra được. Bởi vì nó còn cái hoạt động của Tưởng lực, cái tưởng lực.
(45:13) Cho nên cái Tưởng lực không có thể chủ động.
Cũng như con ngồi thiền bữa nay sao ngồi an quá, mà lát nữa hay ngày mai con ngồi
không an, là cái hỷ lạc của Tưởng. Còn cái kia con muốn an lạc, là con ra lệnh
nó an lạc liền. Con chủ động. Cho nên hai cái này nó khác, nó thuộc về Ý thức lực,
còn kia nó thuộc về Tưởng lực. Nó cũng tạo cho con có cái lực, mà cái lực của
nó là cái lực Tưởng. Cho nên con không có chủ động điều khiển nó được. Nó là Tưởng
rồi.
Tu sinh 1: Bạch Thầy, tại
sao mình dùng Tưởng lực mà không dùng Thức lực? (…)
Trưởng lão: Bởi vì cái Thức Uẩn
mình chưa có hoạt động được. Con thấy có năm cái uẩn phải không? Cái Sắc Uẩn
này, cái Tưởng Uẩn này, cái Thức Uẩn này. Mà hiện bây giờ là con người chúng ta
đang hoạt động ở trong cái Sắc Uẩn và cái Tưởng Uẩn. Mà cái Thức Uẩn thì chưa
có hoạt động, hoàn toàn nó nằm yên đó, nó không hoạt động. Mà khi hoạt động là
nó thực hiện cái Tứ Thần Túc rồi. Cho nên con thấy nó hoạt động Tứ Thần Túc, nó
mới thực hiện được cái Tam Minh của nó là cái Thức Uẩn – cái biết của Thức- các
con hiểu chưa?
Còn bây giờ cái biết của Tưởng nè, cái biết của Sắc Uẩn
nè, cái ý thức của mình, đó là cái nằm trong cái Sắc Uẩn - sáu cái biết đó. Thì
hai cái biết này thì coi như là nó đang hoạt động ở trên cái thân của chúng ta.
Cho nên bây giờ con thức là con sử dụng Sắc Uẩn, và đồng thời con ngủ là con sử
dụng cái chiêm bao của con, là sử dụng cái Tưởng Uẩn. Đó hai cái mình dễ nhận.
Còn nhiều cái mình như lên đồng, nhập cốt đều là Tưởng Uẩn
hết. Mấy người mà lên đồng, nhập cốt, mấy ông mà luyện bùa, luyện chú đều là
dùng Tưởng hết. Mình ngồi đây mà mình thấy an lạc này kia, mình ngồi Thiền mà
thấy an lạc, thì Thầy cảnh giác mấy con coi chừng là Xúc Tưởng Hỷ Lạc – cái Tưởng
nó xuất hiện ra. Chứ nó không phải thật sự là cái hỷ lạc qua sự xả tâm ly dục,
ly ác pháp, mà nó có cái hỷ lạc của sự ly dục, ly ác pháp.
(47:11) Mà nó tạo ra cái Tưởng đó, mình ly chưa hết
mà nó lại có hỷ lạc, thì cái này là thuộc về Tưởng.
Còn sự thật ra một cái người mà ly dục, ly ác pháp hết,
thì do ly dục sanh hỷ lạc, thì cái hỷ lạc này nó thực sự do ly dục. Mà con ly dục
chưa hết, tức là tham, sân, si con còn, mà sao lại có hỷ lạc? Thì đó là hỷ Tưởng.
Con hiểu điều đó không? Nó dễ mà.
Tu sinh 1: Bạch Thầy,
trong trường hợp mà Tứ Thần Túc, có lúc Thầy dạy do Thất Giác Chi nó sung mãn,
cũng có lúc mình tu (…) nó có Tứ Thần Túc. Như vậy mà (…) hay là mình phải tu
cái nào (…)
Trưởng lão: À coi như là cái
pháp Thân Hành Niệm là cái pháp luyện ra Bảy cái Năng Lực Của Giác Chi nó xuất
hiện ra, mà nó cũng là Tứ Thần Túc. Nhưng mà cái tâm con phải ly dục, ly ác
pháp hoàn toàn.
Không khéo nó thành một cái lực Tưởng của Tứ Thần Túc.
Cho nên hầu hết ngoại đạo đều đi vào cái pháp tu tập như cái pháp Thân Hành Niệm
của Phật dạy mà không lo ly dục, ly ác pháp bằng Giới Luật đi vào Thiền Định.
Thì tức là nó sẽ có những cái lực của Thần Túc của nó, mà Thần Túc của ngoại đạo.
Cho nên họ cũng có thần thông, con không thấy sao? Đó là đi vào cái lực thần
thông của Tưởng.
Còn trái lại, đạo Phật dạy chúng ta đi vào từ ngõ Giới đi
vào để ly dục, ly ác pháp cho sạch. Rồi bước vào Tứ Niệm Xứ cho nó thanh tịnh
hoàn toàn, nó rốt ráo, thì tức là nó thực hiện Bảy Năng Lực Của Giác Chi ở trên
cái Tứ Niệm Xứ. Do đó Tứ Thần Túc nó hiện ra ở trên đó. Bởi vì Tứ Thần Túc có
nghĩa là Bảy Năng Lực Của Giác Chi chứ không phải cái gì khác. Gồm cái tên của
nó để cho dễ hiểu, chứ nó là bảy cái Năng Lực Của Giác Chi. Nó có đủ Bảy Năng Lực
Của Giác Chi là Tứ Thần Túc.
Mấy con còn hỏi Thầy gì nữa không? Hết rồi phải không?
À khoan con, để sau con.
À con hỏi đi!
Tu sinh 2: (…)
Trưởng lão: Mấy con cứ gởi Thầy,
Thầy sẽ trả lời mấy con sau, Thầy không có thì giờ.
Con, con cứ hỏi đi con!
Tu sinh 3: Dạ thưa Thầy,
khi con ngồi xuống con niệm hồng danh Phật và con cũng nhờ từ trường của Thầy
giúp đỡ cho ly dục, ly ác pháp, tăng trưởng thiện pháp. Hiện tâm con còn vấp. Để
mà con cũng bắt chước Thầy, cũng có làm: “Tâm phải quay vô, đừng có
hướng ra ngoài!” thì nó cũng được năm, ba phút, lơ môt cái thì nó
tấn công lại.Vì vậy thưa Thầy, nó có bị ức chế tâm không?
(49:46) Trưởng lão: Bị. Bây giờ không có kìm.
Mình chỉ nhắc bình thường thôi. Bởi vì tu Tứ Niệm Xứ là mình nhắc bình thường: “Tâm
bất động, ly dục, ly ác pháp, ngồi đây!”. Mà vừa nhắc rồi thì bắt đầu
có niệm, chứ chưa nói là nó được phút nào hết đâu, được giây nào đâu. Có niệm,
tác ý: “Đi đi, ở đây không phải là chỗ mày ở, tâm bất động, thanh thản,
an lạc, vô sự”. Rồi bắt đầu mới vừa nói xong cái lại có niệm nữa, thì
tác ý nữa. Cứ như vậy, chứ đừng có kìm. Kìm để cho nó được một hai phút, hoặc
là năm, ba phút mà không niệm, đó là con bị ức chế. Có vậy thôi, về cứ tác ý xả
thôi. Xả nhiều thì nó sẽ thanh tịnh nhiều. Con về rồi tác ý đuổi đi hoài. Đuổi
riết rồi nó sẽ không còn vô nữa, thì nó là thanh tịnh, mà không bị ức chế con.
Tu sinh 3: Vậy là không kìm ạ?
Trưởng lão: Không kìm. Không
kìm nó. Không giữ nó.
Tu sinh 3: Con cứ dựa vào
từ trường của Thầy mà con tu hành.
Trưởng lão: Tu đúng pháp thì cứ. “Mặc
dù mày nhiều bao nhiêu tao đuổi ra bao nhiêu, chứ tao không có kìm nữa”.
Dùng câu niệm Phật này kia đó là một lối ức chế, không được.
Không kìm, không niệm Phật nữa, xả hết. “Bây giờ có nhiều bao nhiêu thì
tao cứ tác ý hoài, mà hễ mà không có thì tao ngồi chơi”, có vậy thôi. Ngồi
chơi dù một phút mà không có, thì ngồi chơi một phút. Còn hễ có, thì tác ý. Hễ
có niệm thì tác ý, có niệm thì tác ý … thì như vậy con sẽ tu đúng pháp, không
sai, và nó sẽ tới nơi tới chốn. Đừng có sợ. Nghĩa là bền chí, ngày ngày nó qua
rồi, nó sẽ không còn có nữa. Đó là cách thức xả tâm con. Còn con kìm kìm nó để
cho không vọng tưởng, được một phút giây thì kìm riết đây bắt đầu nó lại bị ức
chế.
Tu sinh 3: Thưa Thầy, con
cảm ơn Thầy!
Trưởng lão: Ừ rồi con. Ráng về
tu tập. Có gì thì thưa Thầy.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét